Trẻ em là thế hệ măng non, gia đình nào cũng mong muốn con cái khỏe mạnh, học hành thành đạt. Tuy nhiên, nếu đứa trẻ được sinh ra bởi một bà mẹ có virus viêm gan C trong người và gặp một số trường hợp thì đứa trẻ đó hoàn toàn có thể bị lây nhiễm viêm gan C.
Viêm gan C là gì?
Viêm gan C là bệnh truyền nhiễm do Hepatitis C virus (HCV) gây nên, bệnh thầm lặng nhưng hậu quả rất nặng nề. Tại Việt Nam ghi nhận có hơn 5 triệu người mắc viêm gan C và con số này không ngừng gia tăng bởi hiện nay chưa có vắc xin phòng viêm gan C. Tỷ lệ nhiễm viêm gan C ở Việt Nam thấp trong dân số nói chung nhưng tập trung ở những người tiêm chích ma túy, có thể tới 97%. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại hơn khi căn bệnh này đang ngày càng trẻ hóa tại Việt Nam. Khoảng 85% bệnh nhân nhiễm HCV sẽ chuyển thành mạn tính và khoảng 20 đến 25% bệnh nhân mạn tính sẽ chuyển qua xơ gan và ung thư gan.
Là căn bệnh truyền nhiễm, viêm gan C có thể lây sang người khác theo 3 con đường bao gồm:
- Lây từ mẹ sang con (tỉ lệ dưới 5%)
- Đường máu (sử dụng kim tiêm chung, trải qua các thủ thuật có dụng cụ nhiễm virus)…
- Quan hệ tình dục không an toàn
Những nguyên nhân nào khiến trẻ em mắc viêm gan B?
Phần lớn trẻ em nhiễm virus viêm gan C là do lây lan từ mẹ. Mặc dù tỷ lệ lây bệnh từ mẹ sang con ở bệnh viêm gan C chỉ khoảng 5% nhưng nếu bà mẹ có nồng độ virus cao trong thời kỳ mang thai thì đứa con sinh ra có nguy cơ lây bệnh là rất lớn.
Bên cạnh đó, cũng có một tỉ lệ nhỏ trẻ khác bị nhiễm viêm gan C qua con đường tiếp xúc với máu của người bệnh như: Dùng chung bàn chải đánh răng, bấm móng tay hoặc tiếp xúc vô tình với máu của người bệnh.
Có 2 giai đoạn của bệnh viêm gan C: Cấp tính và mạn tính. Ở giai đoạn đầu trẻ không có dấu hiệu của bệnh. Có 1/4 trẻ em bị nhiễm viêm gan C không được phát hiện trong giai đoạn cấp tính. Nếu không được phát hiện kịp thời, viêm gan C có thể tiến triển thành mạn tính.
Trẻ sơ sinh bị viêm gan cấp tính biểu hiện bệnh thường không rõ ràng. Viêm gan C cấp tính ở trẻ sơ sinh có thể có một số triệu chứng như vàng da, nước tiểu vàng, bú kém. Xét nghiệm máu sẽ thấy men gan và các chỉ số bilirubin máu cũng tăng rất cao. Các biểu hiện này rất dễ bỏ qua vì trẻ thường ở trong phòng dưới ánh sáng đèn nên rất khó phát hiện. Trẻ mắc viêm gan C đôi khi có thể nhầm với trẻ bị vàng da sinh lý. Vì vậy, khi thấy trẻ có biểu hiện vàng da, cha mẹ cần đưa trẻ đến bệnh viện để khám ngay.
Với trẻ em, điều trị viêm gan C hiện nay gặp nhiều khó khăn nên phần lớn trẻ sẽ phải sống chung với virus cả đời. Hơn nữa, sức đề kháng của trẻ nhỏ thấp nên virus dễ dàng tấn công và gây nguy hiểm cho trẻ. Nếu không được điều trị kịp thời, viêm gan C ở trẻ em sẽ âm thầm tấn công tế bào gan, bệnh dễ dàng tiến triển đến xơ gan và ung thư gan nhanh hơn.
>> Xem thêm: Điều trị viêm gan C ở trẻ em
Điều trị viêm gan C ở trẻ như thế nào?
Cho đến nay, biện pháp điều trị viêm gan C cơ bản là dùng pegylate interferon (alfa 2a và 2b), thuốc điều trị chủ yếu nhất cho viêm gan siêu vi C mạn tính. Interferon alpha là một chất tự nhiên có trong cơ thể, được các tế bào đề kháng sản xuất ra khi bị nhiễm virus. Khi dùng điều trị bệnh viêm gan C, interferon alpha sẽ bắt chước đáp ứng tự nhiên của cơ thể. Khi kết hợp với ribavirin với peginterferon hiệu quả đạt được khoảng 54-63%.
Lưu ý rằng, phương thức điều trị viêm gan C và liều lượng thuốc phải do bác sĩ chỉ định, người bệnh không được tự ý mua thuốc để uống. Mẹ cần tích cực điều trị cho bé, không để tình trạng gián đoạn diễn ra bởi nếu quá trình điều trị không liền mạch, bệnh có khả năng tái phát cao sẽ khiến việc điều trị lần sau trở nên khó khăn hơn.
Ngoài ra, một điều quan trọng khác chúng ta cần nắm đó là cách phòng ngừa viêm gan C lây lan. Vì chưa có vắc xin nên chỉ có thể phòng bệnh qua những con đường lây truyền của bệnh.
Nếu người mẹ không bị nhiễm virus thì mẹ cần phòng tránh bằng cách :
– Chỉ đưa trẻ đi khám bệnh tại các cơ sở y tế uy tín, thận trọng khi cho trẻ truyền máu
– Không có trẻ dùng chung các vật dụng cá nhân như bàn chải đánh răng, bấm móng tay,.. nhất là khi trẻ đi học.
Nếu người mẹ mang virus thì cần điều trị thuốc kháng virus cho tới khi virus không hoạt động thì mới nên mang thai và sinh con và luôn thông báo với các bác sĩ chuyên khoa gan và sản về tình trạng nhiễm bệnh của mình để bác sĩ có biện pháp can thiệp kịp thời, tránh trường hợp gây nguy hiểm cho trẻ.
>> Xem thêm: Tìm hiểu bệnh viêm gan C ở trẻ em